Năm 2021, GDP của Trung Quốc tăng 8,1% so với cùng kỳ năm ngoái, phá mốc 110 nghìn tỷ nhân dân tệ

*** Thực hiện đầy đủ nhiệm vụ “sáu đảm bảo”, tăng cường điều chỉnh chính sách vĩ mô theo chu kỳ, tăng cường hỗ trợ nền kinh tế thực, tiếp tục khôi phục đà phát triển của nền kinh tế quốc dân, đi sâu cải cách, mở cửa và đổi mới sáng tạo, bảo đảm hiệu quả quyền lợi của nhân dân sinh kế, có bước tiến mới trong xây dựng mô hình phát triển mới, đạt kết quả mới về phát triển chất lượng cao, thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ 14.

Theo kế toán sơ bộ, GDP hàng năm là 114367 tỷ nhân dân tệ, tăng 8,1% so với năm trước theo giá cố định và tăng trung bình 5,1% trong hai năm.Xét theo quý, quý I tăng 18,3% so với cùng kỳ, quý II tăng 7,9%, quý III tăng 4,9% và quý IV tăng 4,0%.Theo ngành, giá trị gia tăng của ngành sơ cấp là 83086,6 tỷ nhân dân tệ, tăng 7,1% so với năm trước;Giá trị gia tăng của ngành thứ cấp là 450,904 tỷ nhân dân tệ, tăng 8,2%;Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp thứ ba là 60968 tỷ nhân dân tệ, tăng 8,2%.

1. Sản lượng lương thực đạt mức cao mới, sản lượng chăn nuôi tăng đều

Tổng sản lượng lương thực có hạt của cả nước là 68,285 triệu tấn, tăng 13,36 triệu tấn hay 2,0% so với năm trước.Trong đó, sản lượng lương thực có hạt vụ hè 145,96 triệu tấn, tăng 2,2%;Sản lượng lúa sớm 28,02 triệu tấn, tăng 2,7%;Sản lượng lương thực có hạt vụ thu 508,88 triệu tấn, tăng 1,9%.Về giống, sản lượng lúa đạt 212,84 triệu tấn, tăng 0,5%;Sản lượng lúa mì 136,95 triệu tấn, tăng 2,0%;Sản lượng ngô 272,55 triệu tấn, tăng 4,6%;Sản lượng đậu tương 16,4 triệu tấn, giảm 16,4%.Sản lượng thịt lợn, gia súc, cừu và thịt gia cầm hàng năm đạt 88,87 triệu tấn, tăng 16,3% so với năm trước;Trong đó, sản lượng thịt lợn hơi đạt 52,96 triệu tấn, tăng 28,8%;Sản lượng thịt bò đạt 6,98 triệu tấn, tăng 3,7%;Sản lượng thịt cừu đạt 5,14 triệu tấn, tăng 4,4%;Sản lượng thịt gia cầm đạt 23,8 triệu tấn, tăng 0,8%.Sản lượng sữa 36,83 triệu tấn, tăng 7,1%;Sản lượng trứng gia cầm đạt 34,09 triệu tấn, giảm 1,7%.Cuối năm 2021, đàn lợn hơi và lợn nái sinh sản tăng lần lượt 10,5% và 4,0% so với cuối năm trước

2. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển, sản xuất công nghệ cao và chế tạo thiết bị tăng nhanh

Cả năm, giá trị gia tăng của các ngành trên quy mô quy mô tăng 9,6% so với năm trước, bình quân hai năm tăng 6,1%.Xét theo 3 nhóm, giá trị tăng thêm của ngành khai khoáng tăng 5,3%; ngành chế tạo, chế tạo tăng 9,8% và ngành sản xuất và cung cấp điện, nhiệt, khí đốt và nước tăng 11,4%.Giá trị gia tăng của ngành chế tạo công nghệ cao và chế tạo thiết bị tăng lần lượt là 18,2% và 12,9%, nhanh hơn 8,6 và 3,3 điểm phần trăm so với giá trị gia tăng của các ngành có quy mô lớn hơn.Theo sản phẩm, sản lượng xe năng lượng mới, rô bốt công nghiệp, mạch tích hợp và thiết bị máy vi tính tăng lần lượt là 145,6%, 44,9%, 33,3% và 22,3%.Xét theo loại hình kinh tế, giá trị tăng thêm của doanh nghiệp nhà nước tăng thêm 8,0%;Số doanh nghiệp cổ phần tăng 9,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp do Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan đầu tư tăng 8,9%;doanh nghiệp tư nhân tăng 10,2%.Trong tháng 12, giá trị gia tăng của các ngành trên quy mô được chỉ định tăng 4,3% so với cùng kỳ năm ngoái và 0,42% so với tháng trước.Chỉ số nhà quản trị mua hàng ngành sản xuất là 50,3%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với tháng trước.Năm 2021, tỷ lệ sử dụng công suất công nghiệp quốc gia là 77,5%, tăng 3,0 điểm phần trăm so với năm trước.

Từ tháng 1 đến tháng 11, các doanh nghiệp công nghiệp trên Quy mô được chỉ định đạt tổng lợi nhuận là 7975 tỷ nhân dân tệ, tăng 38,0% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng trung bình 18,9% trong hai năm.Tỷ suất lợi nhuận trên thu nhập hoạt động của các Doanh nghiệp Công nghiệp trên quy mô được chỉ định là 6,98%, tăng 0,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái.

3. Ngành dịch vụ tiếp tục phục hồi, ngành dịch vụ hiện đại tăng trưởng tốt

Ngành công nghiệp thứ ba tăng trưởng nhanh chóng trong suốt cả năm.Theo ngành, giá trị gia tăng của dịch vụ truyền dẫn thông tin, phần mềm và công nghệ thông tin, lưu trú và ăn uống, vận tải, kho bãi và bưu chính tăng lần lượt 17,2%, 14,5% và 12,1% so với năm trước, duy trì mức tăng trưởng phục hồi.Cả năm, chỉ số sản xuất ngành dịch vụ cả nước tăng 13,1% so với năm trước, bình quân hai năm tăng 6,0%.Tháng 12, chỉ số sản xuất toàn ngành dịch vụ tăng 3,0% so với cùng kỳ năm trước.Từ tháng 1 đến tháng 11, doanh thu hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ trên quy mô được chỉ định tăng 20,7% so với cùng kỳ năm ngoái, với mức tăng trung bình là 10,8% trong hai năm.Tháng 12, chỉ số hoạt động kinh doanh của ngành dịch vụ là 52,0%, tăng 0,9 điểm phần trăm so với tháng trước.Trong số đó, chỉ số hoạt động kinh doanh của các dịch vụ viễn thông, phát thanh và truyền hình và truyền dẫn vệ tinh, dịch vụ tài chính tiền tệ, dịch vụ thị trường vốn và các ngành khác vẫn ở mức bùng nổ cao trên 60,0%.

4. Quy mô thị trường mở rộng, doanh số bán các mặt hàng cơ bản và nâng cấp tăng nhanh

Tổng mức bán lẻ hàng tiêu dùng xã hội cả năm là 44082,3 tỷ nhân dân tệ, tăng 12,5% so với năm trước;Tốc độ tăng trưởng bình quân trong hai năm là 3,9%.Theo vị trí của các đơn vị kinh doanh, doanh thu bán lẻ hàng tiêu dùng đô thị đạt 38155,8 tỷ nhân dân tệ, tăng 12,5%;Doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng nông thôn đạt 5926,5 tỷ nhân dân tệ, tăng 12,1%.Theo loại hình tiêu dùng, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 39392,8 tỷ nhân dân tệ, tăng 11,8%;Doanh thu dịch vụ ăn uống là 4689,5 tỷ nhân dân tệ, tăng 18,6%.Tiêu dùng sinh hoạt cơ bản tăng trưởng tốt và doanh số bán lẻ hàng hóa đồ uống, ngũ cốc, dầu và thực phẩm của các đơn vị trên hạn ngạch tăng lần lượt 20,4% và 10,8% so với năm trước.Nhu cầu nâng cấp của người tiêu dùng tiếp tục được giải phóng và doanh số bán lẻ vàng, bạc, trang sức và đồ dùng văn phòng của các đơn vị trên hạn ngạch tăng lần lượt là 29,8% và 18,8%.Tháng 12, tổng mức bán lẻ hàng hóa tiêu dùng xã hội tăng 1,7% theo năm và giảm 0,18% theo tháng.Trong cả năm, doanh số bán lẻ trực tuyến toàn quốc đạt 13088,4 tỷ nhân dân tệ, tăng 14,1% so với năm trước.Trong số đó, doanh số bán lẻ trực tuyến của hàng hóa vật chất là 10804,2 tỷ nhân dân tệ, tăng 12,0%, chiếm 24,5% tổng doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng xã hội.

5. Đầu tư vào tài sản cố định duy trì tăng trưởng, đầu tư vào các ngành sản xuất, công nghiệp công nghệ cao tăng tốt

Cả năm, đầu tư tài sản cố định quốc gia (không bao gồm nông dân) là 54454,7 tỷ nhân dân tệ, tăng 4,9% so với năm trước;Tốc độ tăng trưởng bình quân trong hai năm là 3,9%.Theo khu vực, đầu tư cơ sở hạ tầng tăng 0,4%, đầu tư sản xuất tăng 13,5% và đầu tư phát triển bất động sản tăng 4,4%.Diện tích bán nhà ở thương mại tại Trung Quốc là 1794,33 triệu mét vuông, tăng 1,9%;Doanh số bán nhà ở thương mại là 18193 tỷ nhân dân tệ, tăng 4,8%.Theo ngành, đầu tư vào ngành công nghiệp sơ cấp tăng 9,1%, đầu tư vào ngành thứ cấp tăng 11,3% và đầu tư vào ngành cấp ba tăng 2,1%.Đầu tư tư nhân là 30765,9 tỷ nhân dân tệ, tăng 7,0%, chiếm 56,5% tổng vốn đầu tư.Đầu tư vào các ngành công nghệ cao tăng 17,1%, nhanh hơn 12,2 điểm phần trăm so với tổng đầu tư.Trong số đó, đầu tư vào sản xuất công nghệ cao và dịch vụ công nghệ cao tăng lần lượt 22,2% và 7,9%.Trong ngành sản xuất công nghệ cao, đầu tư vào sản xuất thiết bị điện tử và truyền thông, sản xuất máy vi tính và thiết bị văn phòng tăng lần lượt 25,8% và 21,1%;Trong ngành dịch vụ công nghệ cao, đầu tư vào ngành dịch vụ thương mại điện tử và ngành dịch vụ chuyển đổi thành tựu khoa học và công nghệ lần lượt tăng 60,3% và 16,0%.Đầu tư cho lĩnh vực xã hội tăng 10,7% so với năm trước, trong đó đầu tư cho y tế và giáo dục tăng lần lượt 24,5% và 11,7%.Trong tháng 12, đầu tư tài sản cố định tăng 0,22% so với tháng trước.

6. Xuất nhập khẩu hàng hóa tăng trưởng nhanh, cơ cấu thương mại tiếp tục được tối ưu hóa

Tổng khối lượng xuất nhập khẩu hàng hóa trong cả năm là 39100,9 tỷ nhân dân tệ, tăng 21,4% so với năm trước.Trong số đó, xuất khẩu là 21734,8 tỷ nhân dân tệ, tăng 21,2%;Tổng nhập khẩu đạt 17366,1 tỷ nhân dân tệ, tăng 21,5%.Xuất nhập khẩu bù trừ cho nhau, xuất siêu 4368,7 tỷ nhân dân tệ.Xuất nhập khẩu thương mại tổng hợp tăng 24,7%, chiếm tỷ trọng 61,6% trong tổng xuất nhập khẩu, tăng 1,6 điểm phần trăm so với năm trước.Xuất nhập khẩu của doanh nghiệp tư nhân tăng 26,7%, chiếm 48,6% tổng xuất nhập khẩu, tăng 2 điểm phần trăm so với năm trước.Trong tháng 12, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa là 3750,8 tỷ nhân dân tệ, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm ngoái.Trong số đó, xuất khẩu là 2177,7 tỷ nhân dân tệ, tăng 17,3%;Nhập khẩu đạt 1,573 nghìn tỷ nhân dân tệ, tăng 16,0%.Xuất nhập khẩu bù trừ cho nhau, thặng dư thương mại 604,7 tỷ nhân dân tệ.

7. Giá tiêu dùng tăng vừa phải, trong khi giá sản xuất công nghiệp giảm từ mức cao

Giá tiêu dùng (CPI) cả năm tăng 0,9% so với năm trước.Trong đó, thành thị tăng 1,0% và nông thôn tăng 0,7%.Theo danh mục, giá thực phẩm, thuốc lá và rượu giảm 0,3%, quần áo tăng 0,3%, nhà ở tăng 0,8%, nhu yếu phẩm và dịch vụ hàng ngày tăng 0,4%, giao thông và liên lạc tăng 4,1%, giáo dục, văn hóa và giải trí tăng 1,9%, khám chữa bệnh tăng 0,4% và vật tư, dịch vụ khác giảm 1,3%.Trong nhóm giá lương thực, thuốc lá và rượu, giá ngũ cốc tăng 1,1%, giá rau tươi tăng 5,6% và giá thịt lợn giảm 30,3%.CPI cơ bản không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng tăng 0,8%.Trong tháng 12, giá tiêu dùng tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước, giảm 0,8 điểm phần trăm so với tháng trước và giảm 0,3% so với tháng trước.Tính chung cả năm, giá xuất xưởng của các nhà sản xuất công nghiệp tăng 8,1% so với năm trước, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, giảm 2,6 điểm phần trăm so với tháng trước và giảm 1,2% so với tháng trước. tháng.Tính chung cả năm, giá mua của người sản xuất công nghiệp tăng 11,0% so với năm trước, tháng 12 tăng 14,2% theo năm và giảm 1,3% theo tháng.

8. Tình hình việc làm nhìn chung ổn định, tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố, thị xã giảm

Trong suốt cả năm, 12,69 triệu việc làm mới ở đô thị đã được tạo ra, tăng 830.000 so với năm trước.Tỷ lệ thất nghiệp trung bình trong cuộc điều tra đô thị quốc gia là 5,1%, giảm 0,5 điểm phần trăm so với giá trị trung bình của năm trước.Trong tháng 12, tỷ lệ thất nghiệp thành thị của cả nước là 5,1%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.Trong số đó, dân số đã đăng ký cư trú là 5,1% và dân số đã đăng ký cư trú là 4,9%.14,3% dân số trong độ tuổi 16-24 và 4,4% dân số trong độ tuổi 25-59.Trong tháng 12, tỷ lệ thất nghiệp tại 31 thành phố và thị trấn lớn là 5,1%.Số giờ làm việc trung bình hàng tuần của nhân viên doanh nghiệp ở Trung Quốc là 47,8 giờ.Tổng số lao động di cư cả năm là 292,51 triệu người, tăng 6,91 triệu người hay 2,4% so với năm trước.Trong đó, 120,79 triệu lao động di cư tại chỗ, tăng 4,1%;Có 171,72 triệu lao động di cư, tăng 1,3%.Thu nhập trung bình hàng tháng của lao động nhập cư là 4432 nhân dân tệ, tăng 8,8% so với năm trước.

9. Tăng trưởng thu nhập của dân cư cơ bản theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thu nhập bình quân đầu người của dân cư thành thị và nông thôn ngày càng thu hẹp

Trong cả năm, thu nhập khả dụng bình quân đầu người của cư dân ở Trung Quốc là 35128 nhân dân tệ, tăng danh nghĩa 9,1% so với năm trước và tăng danh nghĩa trung bình 6,9% trong hai năm;Nếu loại trừ yếu tố giá, mức tăng trưởng thực tế là 8,1%, bình quân 2 năm là 5,1%, cơ bản phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.Theo nơi thường trú, thu nhập khả dụng bình quân đầu người của cư dân thành thị là 47412 nhân dân tệ, tăng danh nghĩa 8,2% so với năm trước và tăng thực tế là 7,1% sau khi trừ đi các yếu tố giá cả;Cư dân nông thôn là 18931 nhân dân tệ, tăng danh nghĩa 10,5% so với năm trước và tăng thực tế 9,7% sau khi trừ các yếu tố giá cả.Tỷ suất thu nhập khả dụng bình quân đầu người của dân cư thành thị và nông thôn là 2,50, giảm 0,06 so với năm trước.Thu nhập khả dụng bình quân đầu người trung bình của cư dân ở Trung Quốc là 29975 nhân dân tệ, tăng 8,8% về mặt danh nghĩa so với năm trước.Theo năm nhóm thu nhập bình đẳng của cư dân toàn quốc, thu nhập khả dụng bình quân đầu người của nhóm thu nhập thấp là 8333 nhân dân tệ, nhóm thu nhập trung bình thấp là 18446 nhân dân tệ, nhóm thu nhập trung bình là 29053 nhân dân tệ, nhóm thu nhập trung bình cao là 44949 nhân dân tệ nhân dân tệ, và nhóm thu nhập cao là 85836 nhân dân tệ.Trong cả năm, chi tiêu tiêu dùng bình quân đầu người của cư dân Trung Quốc là 24100 nhân dân tệ, tăng danh nghĩa 13,6% so với năm trước và tăng trung bình danh nghĩa 5,7% trong hai năm;Loại trừ các yếu tố giá cả, mức tăng trưởng thực tế là 12,6%, với mức tăng trưởng trung bình là 4,0% trong hai năm.

10. Tổng dân số tăng, tốc độ đô thị hóa tiếp tục tăng

Vào cuối năm, dân số cả nước (bao gồm dân số của 31 tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc trung ương và quân nhân tại ngũ, không bao gồm cư dân Hồng Kông, Macao và Đài Loan và người nước ngoài sống ở 31 tỉnh, khu tự trị và thành phố) trực thuộc trung ương) là 1412,6 triệu đồng, tăng 480 nghìn đồng so với cuối năm trước.Dân số sinh hàng năm là 10,62 triệu người, tỷ suất sinh là 7,52 ‰;Dân số chết là 10,14 triệu người, tỷ suất chết dân số là 7,18‰;Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,34‰.Về cơ cấu giới tính, dân số nam là 723,11 triệu người và dân số nữ là 689,49 triệu người.Tỷ lệ giới tính trong tổng dân số là 104,88 (100 đối với nữ).Về cơ cấu tuổi, dân số trong độ tuổi lao động từ 16-59 tuổi là 88,22 triệu người, chiếm 62,5% dân số cả nước;Cả nước có 267,36 triệu người từ 60 tuổi trở lên, chiếm 18,9% dân số cả nước, trong đó có 200,56 triệu người từ 65 tuổi trở lên, chiếm 14,2% dân số cả nước.Xét theo cơ cấu thành thị và nông thôn, dân số thường trú ở thành thị là 914,25 triệu người, tăng 12,05 triệu người so với cuối năm trước;Dân số nông thôn là 498,35 triệu người, giảm 11,57 triệu người;Tỷ lệ dân số đô thị trong tổng dân số cả nước (tỷ lệ đô thị hóa) là 64,72%, tăng 0,83 điểm phần trăm so với cuối năm trước.Dân số tách hộ (tức là dân số có nơi cư trú và hộ khẩu không cùng đường phố của Thị trấn và đã rời khỏi nơi đăng ký hộ khẩu trên nửa năm) là 504,29 triệu người, tăng 11,53 triệu người so với năm trước;Trong đó, dân số thả nổi là 384,67 triệu người, tăng 8,85 triệu người so với năm trước.

Nhìn chung, nền kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục phục hồi ổn định vào năm 2021, phát triển kinh tế và phòng chống dịch bệnh sẽ tiếp tục dẫn đầu toàn cầu và các chỉ số chính sẽ đạt được các mục tiêu như mong đợi.Đồng thời, chúng ta cũng nên thấy rằng môi trường bên ngoài đang trở nên phức tạp, khắc nghiệt và bất định hơn, và nền kinh tế trong nước đang phải đối mặt với ba áp lực là cầu giảm, cú sốc cung và kỳ vọng suy yếu.*** Phối hợp phòng, chống dịch bệnh với phát triển kinh tế - xã hội một cách khoa học, tiếp tục thực hiện tốt “sáu ổn định” và “sáu đảm bảo”, phấn đấu ổn định kinh tế vĩ mô thị trường, điều hành nền kinh tế trong khuôn khổ hợp lý, giữ vững ổn định chung của xã hội, có những hành động thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XX của Đảng.


Thời gian đăng: Jan-18-2022